Học Viện Thần Học Thánh Phêrô Lê Tùy

Tertullianô

Tertulianô

Hôm nay, chúng ta tìm hiểu một nhân vật người châu Phi, Tertullianô, người từ cuối thế kỷ thứ hai và đầu thế kỷ thứ ba đã khởi sự văn chương Kitô giáo bằng ngôn ngữ Latinh. Ngài bắt đầu sử dụng thần học bằng tiếng Latinh. Công việc của ngài mang lại những lợi ích quyết định. Ảnh hưởng của ngài bao trùm nhiều lĩnh vực khác nhau: ngôn ngữ, từ việc sử dụng ngôn ngữ và phục hồi văn hóa cổ điển, đến việc chọn ra một “linh hồn Kitô giáo” chung trên thế giới và trong việc xây dựng các đề xuất mới về sự chung sống của con người.

Chúng ta không biết chính xác ngày sinh và ngày mất của ngài. Thay vào đó, chúng ta biết rằng tại Carthage, vào cuối thế kỷ thứ hai, ngài đã nhận được một nền giáo dục vững chắc về hùng biện, triết học, lịch sử và luật pháp từ cha mẹ ngoại giáo và gia sư của mình. Sau đó, ngài trở lại sang Kitô giáo vì ngài bị thu hút bằng gương của các vị tử đạo Kitô giáo.

Ngài bắt đầu xuất bản các tác phẩm nổi tiếng nhất của mình vào năm 197. Nhưng một cuộc tìm kiếm sự thật quá cá nhân, cùng với tính cách không khoan nhượng của mình- ngài là một người nghiêm khắc - dần dần khiến ngài rời khỏi sự hiệp thông với Giáo hội để thuộc về giáo phái Montanô[1]. Tuy nhiên, sự độc đáo trong tư tưởng của ngài, cùng với hiệu quả sắc bén của ngôn ngữ, đã đảm bảo cho ngài một vị trí cao trong văn chương Kitô giáo cổ thời.

Những bài viết Hộ giáo của ngài là nổi tiếng nhất. Chúng thể hiện hai mục đích chính: bác bỏ những cáo buộc nghiêm trọng mà những người ngoại giáo nhắm vào tôn giáo mới; chủ động và truyền giáo hơn để loan báo sứ điệp Tin Mừng trong cuộc đối thoại với văn hóa thời đại.

Tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài, Hộ giáo, tố cáo hành vi bất công của các nhà cầm quyền chính trị đối với Giáo hội, giải thích và bảo vệ giáo huấn và phong tục của các Kitô hữu, giải thích sự khác biệt giữa tôn giáo mới và các trào lưu triết học chính của thời đại, và biểu lộ chiến thắng của Chúa Thánh Thần chống lại những kẻ bách hại bằng máu, đau khổ và kiên nhẫn của các vị tử đạo. Một cách tinh tế, Tertullianô viết, “sự tàn ác của các bạn không phục vụ mục đích gì. Trái lại, đối với cộng đoàn của chúng tôi, đó là một lời mời. Chúng tôi nhân lên mỗi khi một trong hai chúng tôi bị đốn hạ”. “Máu của các Kitô hữu là hạt giống trổ sinh” (semen est sanguis christianorum!, Hộ giáo, 50,13).

Tử đạo, chịu đau khổ vì sự thật, cuối cùng chiến thắng và hiệu quả hơn sự tàn ác và bạo lực của các chế độ độc tài.

Nhưng Tertullianô, như mọi nhà hộ giáo tài ba, đồng thời cảm thấy cần phải truyền đạt bản chất của Kitô giáo một cách tích cực. Đây là lý do tại sao ngài đã áp dụng phương pháp chứng để minh họa nền tảng hợp lý của giáo lý Kitô giáo. Ngài đã phát triển nó một cách có hệ thống, bắt đầu bằng việc mô tả “Thiên Chúa của các Kitô hữu”. Tertullianô viết “Người mà chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa duy nhất”. Và ngài tiếp tục, sử dụng những phản đề và nghịch lý đặc trưng của ngôn ngữ của ngài: “Người vô hình, ngay cả khi bạn nhìn thấy Người, khó nắm bắt, ngay cả khi Người hiện diện nhờ ân sủng; Không thể tưởng tượng được ngay cả khi giác quan của con người có thể cảm nhận được Người, do đó, Người là chân chính và vĩ đại!” (x. Hộ giáo, 17,1-2).

Hơn nữa, Tertullianô có một bước tiến lớn trong việc phát triển giáo lý về Chúa Ba Ngôi. Ngài đã cung cấp cho chúng ta một cách thích hợp để diễn tả mầu nhiệm vĩ đại này bằng tiếng Latinh bằng cách giới thiệu các thuật ngữ một “bản thể” và ba “ngôi vị”. Tương tự như vậy, ngài cũng đã phát triển rất nhiều ngôn ngữ chính xác để diễn tả mầu nhiệm Chúa Kitô, Con Thiên Chúa và Con Người đích thực (hai “bản tính” và một “ngôi vị”).

Chúa Thánh Thần cũng được đề cập trong các tác phẩm của ngài. Tertullianô chứng tỏ đặc tính cá nhân và thần linh của Chúa Thánh Thần như sau: “Chúng tôi tin rằng, theo lời hứa của Người, Chúa Giêsu Kitô đã sai đến, nhờ Chúa Cha, Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ, Đấng thánh hóa đức tin của tất cả những ai tin vào Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (ibid., 2,1).

Một lần nữa, trong các tác phẩm của Tertullianô có nhiều văn bản nói về Giáo hội. Ngài luôn công nhận Giáo Hội là “mẹ”. Ngay cả sau khi chấp nhận chủ nghĩa Montanô, ngài vẫn không quên rằng Giáo hội là Mẹ của đức tin và đời sống Kitô hữu của chúng ta.

Ngài thậm chí còn suy tư về hành vi đạo đức của các Kitô hữu và cuộc sống tương lai. Các bài viết của ngài rất quan trọng vì chúng cũng cho thấy những xu hướng thực tiễn trong cộng đoàn Kitô hữu liên quan đến Đức Maria Rất Thánh, các Bí tích Thánh Thể, Hôn nhân và Hòa giải, tính ưu việt của Thánh Phêrô, cầu nguyện. Một cách đặc biệt, trong những thời kỳ bách hại khi các Kitô hữu dường như là một thiểu số lạc lối, Tertullianô đã khuyến khích họ hy vọng, mà trong các chuyên luận của ngài không chỉ đơn giản là một nhân đức, nhưng là một cái gì đó liên quan đến mọi khía cạnh của cuộc sống Kitô hữu.

Chúng ta có hy vọng rằng tương lai là của chúng ta bởi vì tương lai là của Thiên Chúa. Do đó, sự Phục Sinh của Chúa được trình bày như là nền tảng của sự phục sinh trong tương lai của chúng ta và đại diện cho đối tượng chính  của niềm tin tưởng của Kitô hữu. Tertullianô khẳng định một cách dứt khoát, “Và như thế xác thịt sẽ sống lại hoàn toàn trong mọi người, trong căn tính riêng của nó, trong sự toàn vẹn tuyệt đối của nó. Bất cứ nơi nào có thể, nó được gìn giữ an toàn trong sự hiện diện của Thiên Chúa, qua Đấng Trung gian trung tín nhất giữa Thiên Chúa và con người, Chúa Giêsu Kitô, Đấng hòa giải Thiên Chúa với con người, và con người với Thiên Chúa” (Liên quan đến sự Phục Sinh của Xác Thịt, 63,1).

Dưới con mắt của người đời, người ta chắc chắn có thể nói về bi kịch của chính Tertullianô. Với nhiều năm trôi qua, ngài ngày càng trở nên cấp thiết đối với các Kitô hữu. Ngài đòi hỏi hành vi anh hùng từ họ trong mọi hoàn cảnh, trên hết là dưới sự bách hại.

Cứng nhắc trong những quan điểm của mình, ngài đã không từ bỏ những lời chỉ trích thẳng thừng và cuối cùng ngài đã tìm thấy mình bị cô lập.

Bên cạnh đó, nhiều câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ cho đến ngày nay, không chỉ về tư tưởng thần học và triết học của Tertullianô, mà còn về thái độ của ngài đối với các thể chế chính trị và xã hội ngoại giáo. Với nhân cách đạo đức và trí tuệ vĩ đại, Tertullianô đã đóng góp rất lớn cho tư tưởng Kitô giáo. Người ta thấy rằng cuối cùng ngài thiếu sự đơn sơ, khiêm nhường để hội nhập với Giáo hội, chấp nhận những yếu đuối của mình, nhẫn nhịn với người khác và với chính mình.

Khi người ta chỉ nhìn thấy tư tưởng của mình trong tất cả sự vĩ đại của nó, cuối cùng, chính sự vĩ đại này đã bị mất. Đặc tính thiết yếu của một nhà thần học vĩ đại là sự khiêm nhường ở lại với Giáo hội, chấp nhận những yếu đuối của chính mình và của người khác, bởi vì thực sự chỉ có Thiên Chúa là thánh thiện. Thay vào đó, chúng ta luôn cần sự tha thứ.

Cuối cùng, Tertullianô vẫn là một chứng tá thú vị của thời kỳ đầu của Giáo hội, khi các Kitô hữu thấy họ chính là những nhân vật đích thực của một “nền văn hóa mới” trong cuộc đối đầu quan trọng giữa di sản cổ điển và sứ điệp Tin Mừng.

Trong lời khẳng định nổi tiếng của ngài: linh hồn chúng ta “một cách tự nhiên là Kitô hữu” (Hộ giáo, 17,6), Tertullianô gợi lên sự liên tục lâu dài giữa các giá trị nhân bản đích thực và các giá trị Kitô giáo. Cũng trong suy tư khác, ngài đã mượn trực tiếp từ Tin Mừng mà khẳng định rằng “người Kitô hữu không thể ghét, ngay cả kẻ thù của mình” (xem Hộ giáo, 37). Điều này dẫn đến việc đón nhấn đức tin với một quyết tâm thực hành lối sống “bất bạo động”. Đây là quy luật của cuộc sống đối với mọi người. Thật vậy, không ai có thể thoát khỏi khả năng kịch tính của giáo lý này.

Tóm lại, các luận thuyết của Tertullianô theo đuổi nhiều chủ đề mà chúng ta vẫn được kêu gọi đối mặt ngày nay. Chúng liên quan đến chúng ta trong một cuộc hồi tâm hiệu quả mà tôi khuyến khích tất cả các tín hữu, để họ có thể biết cách diễn tả Quy luật đức tin, một cách luôn thuyết phục hơn. Một lần nữa, Tertullianô viết Quy luật đức tin “quy định niềm tin rằng chỉ có một Thiên Chúa và Ngài không ai khác hơn là Đấng Tạo Hóa của thế giới, Đấng đã tạo ra tất cả mọi sự từ hư không qua Lời của chính mình, được sinh ra trước mọi sự” (xem Thời hiệu của các kẻ lạc giáo, 13,1).

[1] Montanô chối bỏ mọi thẩm quyền của Giáo hội và dạy về sự Nhập thể của Chúa Thánh Thần nơi chính ông và việc Đức Kitô sắp sửa trở lại.

Lm. An-tôn Trần Văn Phú, biên dịch

Bài viết liên quan